Trời Mở Đạo Vàng Cơ Thánh Đức
Giải Thoát Tâm Linh Phụng Sự Đời
1. Dẫn Nhập:
Chúng tôi hôm nay xin được trình bày cho các bạn tiểu sử của các vị Thầy Tổ của BYHD Thiền Tam Pháp. Trong bài này, phần tiểu sử hữu vi của các vị được trích ra từ những sách vở có mặt ngoài đời. Còn những thông tin về tiểu sử trong vô vi được trích từ những vần thơ điển mà các vị giáng bút cho chúng tôi trong những năm qua.
2. Thầy Tổ BYHD Thiền Tam Pháp
Tổ Sư Đỗ Thuần Hậu: Người khai sáng Pháp Thiền Vô Vi tại Sài Gòn 1950s
Cụ Đỗ Thuần Hậu sanh năm 1887 tại tỉnh Sadec, Quận Lai-Vung, Nam Việt. Thân phụ của Cụ là Cụ Ông Đỗ Hạo Cừu, là Phó Tổng An Thới trong thời kỳ Pháp Thuộc. Thân mẫu của Cụ là Cụ Bà Đào Thị Bòi sanh chỉ có một mình cụ, và mất sớm lúc Cụ mới vừa lên 9 tuổi.
Lúc sinh thời Cụ có hoàn cảnh khổ sở, phải học và làm nhiều nghề để nuôi gia đình như là : làm thầy thuốc Bắc, thuốc Nam, làm bùa Lỗ Ban, coi quẻ, làm thợ mã, thợ nhuộm, thợ sơn v.v. Lúc lập gia đình Cụ phải đi dạy chữ Việt chữ Pháp cho trẻ em. Cụ sanh được 8 người con: 1 trai 7 gái. Con trai cụ là Ông Đỗ Vạn Lý, đã từng là Sứ thần tại Ấn Độ, và Đại Sứ tại Hoa Kỳ dưới thời Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, giữ chức Tham Lý Minh Đạo trong cơ quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Việt Nam. Lúc đầu cụ có học với ngài Cao Minh Thiền Sư trên núi Ông Tô, Động Kim Quang, theo các sách xưa của Tàu như Tánh Mệnh Khuê Chỉ, Thanh Tịnh Kinh v.v. Sau đó cụ tách ra, trở về với gia đình và tự nghiên cứu Pháp Lý Vô Vi. Lúc nghiên cứu pháp Vô Vi cụ đã 55 tuổi. Lúc tu tập cụ được chư phật đến chỉ dạy và sau này trở thành Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp. Cụ Đỗ Thuần Hậu liễu đạo ngày 10-11-1967 tại nhà 93 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, thọ 84 tuổi. Cụ để lại nhiều tác phẩm dạy tu đạo rất giá trị như: Phép Xuất Hồn, Kinh A-Di-Đà, Mơ Duyên Quái Mộng, v.v.
Trong thế giới tâm linh, cụ hiện nay là một vị Kim Tiên làm việc cho ngài Quán Âm tại trời Đao Lợi và cũng là một chiết thân của Đức Thích Ca.
04/14/2009: Đỗ Tổ Sư ghé thăm và cho chúng tôi bài thơ sau:
Đỗ tổ sư khai đạo Vô Vi
Thuần dương tâm đạt bởi từ bi
Hậu kia là tổ từ Thích Ca
Là phân thân giáo chủ ta bà
Thích Ca phân điển khắp mọi nơi
Ca đi ca lại đã bao đời
Mâu ni sáng tỏa miền đất Việt
Ni về Đao Lợi lo công việc.
Kính Bái: Điển Tổ Đỗ Thuần Hậu
Nhị Tổ Phái Thiền Vô Vi: Đức Vĩ Kiên (Thầy Tám Lương Sĩ Hằng) (1923 - 2009)
Thầy Lương Sĩ Hằng là người Việt gốc Hoa, sinh năm 1923 tại Qui Nhơn. Lớn lên Thầy vào Sài Gòn lập nghiệp, lập gia đình nhưng không có con cái. Từ lúc trẻ Thầy đã thấy cuộc đời ô trọc là bể khổ mênh mông và đã có y muốn bỏ đời tìm đạo. Vào lúc tam tuần, nhân duyên đến ông Lương Sĩ Hằng gặp được Đỗ Tổ Sư và được chân truyền môn thiền Vô Vi Pháp Lý Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp và trở thành vị Tổ đời thứ hai của phái Vô Vi. Lúc ra đời truyền pháp từ thập niên 60s thì Thầy Lương Sĩ Hằng còn có tên là Thầy Tám. Sau này khi qua đến Montreal Canada, thầy còn có tên là Vĩ Kiên. Thầy Lương Sĩ Hằng liễu đạo ngày 23 tháng 9 năm 2009 DL tại Montreal Canada. Theo lời tự thuật của thầy Tám là năm ông Lương Sĩ Hằng được 33 tuổi thì có một sự ưng thuận thay hồn đổi xác để hồn ông Lương Sĩ Hằng về tu tại trời Đao Lợi, vía thì ở lại để gìn giữ phần xác còn phần hồn thì do phân thân của Đức Vĩ Kiên (Một trong 32 vị Ngọc Đế) ngự lúc dạy đạo. Trong hơn 50 năm truyền pháp, Thầy Tám đã gầy dựng và phát triển Pháp Thiền Vô Vi khắp năm châu, xây dựng nhiều thiền viện và qui tụ rất nhiều môn sinh. Thầy Tám còn để lại nhiều tác phẩm giá trị như Giảng Nghĩa Kinh A-Di-Đà, Thiền Thực Hành Tự Cứu, Nguyên Lý Tận Độ, Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Giảng Nghĩa bộ sách Thiên Đàng, Địa Ngục, Luân Hồi và Nhân Gian Du Ký của Thánh Hiền Đường Đài Loan.
02/12/2009: Đức Vĩ Kiên cho bài thơ sau:
Cha trời ban bố tình thương
Cho đám con trẻ biết đường về quê
. . . . .
. . . . .
Tam môn phải đủ để thi
Phật Đà đang đợi, con đi về nhà
Tây phương quê cũ một nhà
Phật Đà phân điển học xa học gần
Ba cõi mọi nơi có cha
Vĩ Kiên ba cõi độ tha tại trần
Tại trần cha lại phân thân
Ông Tám chỉ dạy người gần xứ xa
. . . . .
Đức Phật Thầy Tây An:Tổ Sư khai sáng phái Bửu Sơn Kỳ Hương năm 1847 Nam Việt.
Theo các tín đồ Hòa Hảo và Bửu Sơn Kỳ Hương thì ngài có tên là Đoàn Minh Huyên, sanh năm 1807, mất năm 1856, sáng lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương năm 1847. Tuy nhiên gần đây các sử gia đã ra công truy cứu và cho ngài là con trai của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ và Ngọc Hân Công Chúa. (Xin mời đọc bài khảo cứu rất giá trị của SaGiang "Thân Thế Phật Thầy Tây An"). Theo tác giả SaGiang, ngài có tên là Nguyễn Quang Mục, sanh năm Kỷ Dậu 1789, mất năm 1856, được chôn cất tại Tây An Tự núi Sam, Châu Đốc. Ngài đi tu từ thuở nhỏ, không lập gia đình. Sau khi đắc đạo thì khai mở đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Ngài có nhiều phép thần thông như chữa bệnh dịch cho dân chúng, trổ phép phân thân cho cai ngục xem khi quan lại nhà Nguyễn dò xét. Sau đó triều đình thuận phong ngài là thiền sư dòng Lâm Tế với pháp danh là Giác Linh. Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương chú trọng đến Tứ Ân, tu thân học phật đơn giản và Đức Phật Thầy Tây An có nhận Thập Nhị Hiền Thủ làm tông đồ chính yếu để khai hoằng giáo pháp.
Trong tâm linh chúng tôi được cho biết là Đức Phật Thầy Tây An có hiệu Ngọc Thanh, chính là Đức Nguyên Thỉ Thiên Tôn, vị đầu tiên trong Tam Thanh bên Đạo Gia qua câu Nhất Khí Hóa Tam Thanh (Ngọc Thanh, Thái Thanh, Thượng Thanh) cũng là (Nguyên Thỉ Thiên Tôn, Thái Thượng Đạo Tổ, Linh Bảo Thiên Tôn). Khi nói về bên Phật thì Phật Thầy có cùng gốc điển với Đức Quán Âm tức là điển Bi trong bộ ba (Bi, Trí, Dũng) mà tượng trưng là ba vị Bồ Tát (Quán Âm, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền). Trong cuộc Phong Thần Kỳ 2, có Đức Nguyên Thỉ Thiên Tôn xuống thế giúp các tiên bên Xiển Giáo trong trận Tru Tiên (theo truyện Phong Thần). Cho nên lần Phong Thần kỳ 3 sắp tới cũng vậy, Đức Nguyên Thỉ Thiên Tôn cũng xuất hiện nhưng lần này dưới danh hiệu là Đức Phật Thầy Tây An.
Xin mời các bạn đọc hai bài thơ dưới đây sẽ rõ:
Đức Phật Thầy Tây An là Đức Nguyên Thỉ Thiên Tôn:
Dec/27/2012: Đức Phật Thầy Tây An cho thơ:
Tam Thanh cấu tạo cả Càn Khôn
Thống nhất quy mô bởi Chơn Hồn
Sanh sanh hóa hóa Trời Phật tiến
Tận tình giúp đỡ đấng Chí Tôn.
Đã lâu rồi linh hồn phát triển
Từ cõi thanh Thầy chuyển pháp luân
Mỗi mỗi phải hiểu phải tuân
Con đường phật pháp thanh hưng lâu dài.
Từ Phật Bà Thầy khai mở Đạo
Khắp hoàn cầu thông thạo Ngọc-Thanh
Từ nơi cõi Thượng điển lành
Phân chia Tam Giới chúng sanh hưởng nhàn.
Đức Bạch Y cao sang hơn hết
Từ Phật Bà tánh nết từ bi
Tây-An phát triển tức thì
Chăm lo ba cõi thực thi đạo mầu.
Nói tóm lại Thầy đâu giám nói
Là Nguyên-Thỉ thành thói tật hư
Từ Cha phân khối điển từ
Tất cả là một cũng từ điển Cha.
Điển Đức PTTA 12/27/2012
Đức Phật Thầy Tây An và Đức Quan Âm có cùng một gốc điển:
09/10/2009: Ngài Bạch Y Đạo Sĩ cho bài thơ sau:
Phật trình sắc lịnh ra cứu đời
Thầy trò xum họp lại thảnh thơi
Tây phương giáo dục đời trần hạ
An nhàn hưởng lạc bởi ơn trời
Đức độ lo tu nay gặp thời
Huỳnh về cõi hạ dạo khắp nơi
Giáo dìu sanh chúng vào ngươn thượng
Chủ trì chánh pháp lập vị ngôi
Bạch Ngọc Thanh chuyển dục Thiên Lôi
Y như sấm sét nổ trên trời
Đạo mầu khai mở Sơn Thất Cấm
Sĩ phục công danh, đón chúa tôi
Từ quang phản chíếu khắp nơi nơi
Quán chiếu thân tâm đẹp tuyệt vời
Thế gian Tiên Phật lập lại đời
Âm Dương hòa thuận sống thảnh thơi
KB: Điển Ngài Bạch Y Đạo Sĩ 09/10/09
Đức Thích Minh Thiền: Người khai sáng Pháp Vô Niệm Viên Thông tại Phú Định 1980s
Chúng tôi biết rất ít về Thiền Sư Thích Minh Thiền tại cõi thế này. Qua các tác phẩm của Thiền Sư mà chúng tôi được biết, chúng tôi ghi nhận như sau. Trước năm 1975, Thiền Sư tu và ở tại chùa Hội Tông, Phú Định. Tại đây, tác phẩm “Bồ Đề Quán Tâm Pháp” đã được ra đời vào năm 1973, sau đó thì “Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết” được hoàn thành ngày 01-04-1982. Thiền sư đã viên tịch không biết năm nào và tại đâu. Chúng tôi hiện nay có duyên may được tiếp xúc với Thiền Sư trong tâm linh và được biết thêm là Thiền Sư sanh năm 1919 quê quán ở Hội An, Đà Nẵng. Còn trong tâm linh qua các vị như Đức Vĩ Kiên, Đức Bạch Y Đạo Sĩ và Thầy Huỳnh Giáo Chủ, chúng tôi được biết thêm là Đức Thích Minh Thiền và Tổ Minh Đăng Quang tại VN trong thế kỷ thứ 20 là chiết thân của hai anh em Thiền Sư tại cõi trời Đao Lợi, có cùng gốc điển với Đức Bồ Tát Di Lặc. Thêm nữa, Đức Thích Minh Thiền còn là gốc điển của Tổ Bồ Đề Đạt Ma.
Xin mời các bạn đọc những vần thơ dẫn chứng sau đây:
01/15/2009: Đức Thích Minh Thiền cho bài thơ sau:
Minh mẫn lo tu nghĩ chữ hòa
Thiền trong trật tự tâm độ tha
Độ người xứ Hoa muốn giải thoát
Chúng sanh nghiệp dữ cứ lòng vòng
Sanh sanh hoá hoá trong động loạn
Về sao cho được nước Tây Phương
Phật nay Giao Chỉ nay giáng bút
Quốc độ Di Đà nay có lối
KB: Điển Đức Thích Minh Thiền 01/15/09
05/19/11: Thầy Thích Minh Thiền cho thơ: (xác định ngài là phân thân của Tổ Bồ Đề)
. . . .
Đức Phật Tổ thông thạo
Sai Lão xuống trần gian
Làm Tổ thứ hai tám (Tổ Bồ Đề Đạt Ma)
Thấy trần thế thê thảm
Bao nhiêu là khổ đau
Chết chóc cùng dịch tả
Nên Thầy đã giáng lâm
Dụng tâm từ phổ độ
Các con mà tỏ ngộ
Giúp Thầy Tổ một tay
. . . .
Sau đây là hai đoạn thơ của Đức Huỳnh Giáo Chủ nói về thầy của ngài tại cõi Đao Lợi là tổ Bồ Đề Đạt Ma, cũng chính là Đức Thích Minh Thiền:
04/19/2009: Đức HGC cho thơ:
. . . .
Cõi trời Ba Ba có thầy ta
Đạt Ma ông tổ từ đấy ra
Tâm Bi giáng thế vào kỳ Ba
Độ người ra khỏi cõi ta bà
Cõi ta bà pháp qúi Ma Ha
Có thầy Hòa Hảo chọn xác ta
Làm tròn bổn đạo gieo giống qúy
Truyền ban khắp nẻo Pháp Vô Vi
. . . .
05/26/09: Đức Huỳnh Giáo Chủ cho bài thơ sau :
. . . .
Nay Điên được lệnh ban từ Thầy
Thích Minh Thiền thầy, đầy quyền năng
Từ Bi cứu độ quên thân
. . . .
Tổ Sư Minh Đăng Quang (1923 - 1954): người khai sáng Phật Giáo Khất Sĩ Việt Nam.
Tổ Sư Minh Đăng Quang tên là Nguyễn Thành Đạt tự Lý Hườn sanh năm 1923 tại làng Phú Hậu, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long con của ông Nguyễn Tồn Hiếu và bà Phạm Thị Nhàn. Lúc mới sanh ra được hai ngày thì mẹ mất. Ngài thông minh đĩnh ngộ từ thuở nhỏ. Đỗ bằng Yếu Lược năm 14 tuổi và đã muốn xuất gia từ đấy. Lúc trẻ Ngài đến Nam Vang thụ giáo với Sư Miên gốc Việt rành về phép Thánh bùa Tiên. Sau đó Ngài về lại quê, nghe lời cha mẹ lập gia đình sanh được một con gái. Chẳng may, vợ mất lúc sanh đẻ và con gái chết lúc lên ba. Sau đó Ngài xuất gia tầm đạo 1944 đi châu du khắp nơi cùng chốn ... tìm học theo đường lối Phật Giáo Nam Tông và Bắc Tông Ấn Độ. Trải qua thời gian nghiên cứu và thực nghiệm Ngài thấu đạt Chơn Lý giải thoát, mới đứng ra dung nạp những phần tinh túy đặc sắc giữa hai phái đại-thừa và tiểu-thừa, mà thật hành theo đường lối Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam.
Tổ Sư sau khi du học trở về khai đạo tại Sài Gòn rồi lần lượt tại các tỉnh miền Nam. Phật Giáo Khất Sĩ Việt Nam phát triển mạnh mẽ và được nhiều sự ủng hộ của các giới tăng đồ cùng thiện hữu tri thức. Khi Đức Tôn Sư trở về Hậu Giang ngày 1 tháng 2 năm Giáp Ngọ 1954, vì quyền lợi riêng nên một nhóm người bên tông giáo khác bắt ngài đem đi biệt tích. Trích trong sách “Chơn Lý, Tổ Sư Minh Đăng Quang". Hiện nay các bài giảng của Ngài được kết tập lại trong quyển sách tựa đề "CHƠN LÝ".
Ngài ngộ Đạo trên đỉnh núi Tô Châu tỉnh Hà Tiên và được Phật A Di Đà thọ ký cho pháp hiệu là MINH ĐĂNG QUANG.
"Ngồi nhập định trên đỉnh núi Tô Châu ở Hà Tiên, nhìn trùng trùng sóng vỗ, quán pháp sinh, diệt, ngộ lý chơn thường. Đắc Đạo được Đức Di Đà thọ ký pháp hiệu MINH ĐĂNG QUANG. Ngài nói:
Xếp cẳng gốc cây hàng Huệ Sĩ
Chôn mình trong đất bậc Chơn Nhơn
Thân tâm xuất gia hưởng Niết Bàn
Trí tánh hành đạo chuyển Pháp Luân.
trích từ "Điển Quang Biện Chứng Pháp 3, Chơn Lý của Tổ Minh Đăng Quang", trang 176, Lê Trung Trực 1993".
Trong tâm linh, chúng tôi có duyên may tiếp xúc với Tổ Sư và được cho biết là Ngài sẽ trở lại Việt Nam kỳ ba này để giúp xây dựng quốc độ cho Tân Dân Việt Nam. Chúng tôi còn được biết là Tổ Minh Đăng Quang là chiết thân của một thiền sư có gốc là chiết thân của Bồ Tát Di Lặc tại cõi trời Đao Lợi.
12/17/2008: Tổ Minh Đăng Quang cho bài thơ sau:
Minh sư một thời làm khất sĩ
Đăng đuốc thắp sáng tâm người mù
Quang minh chính đại một không hai
Sẽ mãi trong lòng người tu sĩ
Tái tạo một đời ở vị lai
Sanh vào đại đạo giúp kỳ ba
Việt Nam đất nước nay có đủ
Nam phương đất Việt Long Hoa hội
KB: Điển Tổ Minh Đăng Quang 12/17/08
Ngài Bạch Y Đạo Sĩ: con trai út của Đức Ngọc Đế Vĩ Kiên
Ngài Bạch Y Đạo Sĩ có gốc điển với Đức Quan Âm Bồ Tát Tây Phương Cực Lạc, sanh làm con út trong gia đình của Vị Ngọc Đế Vĩ Kiên có tám người con, 4 trai 4 gái, tại cõi trời Đao Lợi. Từ nhỏ ngài đã được cha gởi cho tu học với 2 anh em Thiền Sư có gốc điển của Đức Di Lặc (Chiết thân của 2 Thiền Sư này tại VN trong thế kỷ 20 là Thiền Sư Thích Minh Thiền (Tổ Bồ Đề) và Tổ Sư Minh Đăng Quang). Ở Đao Lợi, ngài Bạch Y Đạo Sĩ mới được 38 tuổi nhưng đã nức tiếng thông minh. Ngài có nhiệm vụ rất lớn để lo dẫn dắt trái đất nói chung và quốc độ VN nói riêng trong thời Thượng Ngươn sắp tới. Tương truyền ngài là tác giả bài "Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh" mà các chùa đều tụng đọc hằng ngày. Theo sách điển tây phương (tác giả Sal Rachele) thì ngài có tên là Lord Sananda, đã ba lần chiết thân (12x12x12 = 1728 chiết thân) trong vũ trụ, nên tại trái đất này có nhiều chiết thân của ngài từ xưa đến nay. Điển hình tại VN là cụ Trạng Trình (1500s) với Đức Huỳnh Giáo Chủ (1940s) là cùng một chiết thân, Bổn Sư Ngô Lợi (1700s), Cậu Ba Thơ Đồng (1980s) là những chiết thân khác nhau của Ngài Bạch Y Đạo Sĩ. Và còn nhiều người nữa mà chúng ta chưa biết đến.
09/10/2009: Ngài Bạch Y Đạo Sĩ cho bài thơ sau:
Phật trình sắc lịnh ra cứu đời
Thầy trò xum họp lại thảnh thơi
Tây phương giáo dục đời trần hạ
An nhàn hưởng lạc bởi ơn trời
Đức độ lo tu nay gặp thời
Huỳnh về cõi hạ dạo khắp nơi
Giáo dìu sanh chúng vào ngươn thượng
Chủ trì chánh pháp lập vị ngôi
Bạch Ngọc Thanh chuyển dục Thiên Lôi
Y như sấm sét nổ trên trời
Đạo mầu khai mở Sơn Thất Cấm
Sĩ phục công danh, đón chúa tôi
Từ quang phản chíếu khắp nơi nơi
Quán chiếu thân tâm đẹp tuyệt vời
Thế gian Tiên Phật lập lại đời
Âm Dương hòa thuận sống thảnh thơi
KB: Điển Ngài Bạch Y Đạo Sĩ 09/10/09
Sau đây chúng tôi xin sơ lược một vài nét chánh về tiểu sử của vài chiết thân tại VN của ngài Bạch Y mà chúng tôi được biết.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:Ngài là một trong những cụ Trạng Nguyên nổi tiếng nhất trong lịch sử VN. Ngài sinh ra làm quan cho nhà Mạc vào thế kỷ 14 (1500s). Ngài rất giỏi về lý số, nổi tiếng với bộ "Thái Ất Thần Kinh". Khi ngài đi sứ sang Tàu thì được nhà Minh tặng cho danh hiệu "Nam Bang Lý học hữu Trình Tuyền". Ngày nay người Việt mình thường ví von là trong lịch sử loài người, những vị tiên tri có thể biết được chuyện 500 năm trước và 500 năm sau chỉ có 3 người. Một là Lưu Bá Ôn (Trung Quốc đời Minh 1300s), hai là cụ Trạng Trình (Việt Nam 1500s), và ba là Nostradamus (Tây 1500s). Cụ là người có công rất lớn chỉ đường cho Chúa Nguyễn Hoàng đem quân vào Nam để tránh Chúa Trịnh và đồng thời mở mang bờ cõi đất Việt. Ngoài ra cụ còn có công lớn trong việc xây dựng chữ Nôm.
Đức Huỳnh Giáo Chủ (1919 - 1947): Người Khai Sáng Phật Giáo Hòa Hảo Tây Nam Việt
Ngài tên Huỳnh Phú Sổ sanh năm 1919 tại làng Hoà Hảo, tỉnh Châu Đốc. Ngài là trưởng nam của Đức ông Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Thuở nhỏ, vừa học xong hết bậc tiểu học thì đau ốm liên miên, nên ngài phải rời nhà trường về dưỡng bịnh. Từ 15 đến 21 tuổi, Ngài không lúc nào dứt được cơn đau và không một lương y nào trị được.
Năm 1939, sau khi hướng dẫn thân phụ viếng các am động miền Thất Sơn và Tà Lơn, những núi non nổi tiếng linh thiêng hùng vĩ, Ngài tỏ ra đại ngộ. Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939) Ngài chính thức mở Đạo. Bắt đầu là công việc chữa bệnh, Ngài chữa lành được các chứng bệnh hiểm nghèo với phương pháp thật đơn giản là chỉ dùng lá cây, nước lã và giấy vàng, khiến các bác sĩ Tây-Y và các dược sư Đông-Y lẫn các danh gia phù thủy đều phải kinh dị.
Song song với việc chữa bệnh ngài thuyết pháp thao thao bất tuyệt. Cũng từ năm 1939, Ngài sáng tác rất nhiều kệ giảng nội dung tiên tri, chiến cuộc sẽ tràn lan, nhân loại sẽ điêu linh và kêu gọi mọi người nên bỏ dữ về lành, thực hành Tứ Ân, trau giồi thiền-tịnh để trở thành thiện nhân trong xã hội và tiến đến sự nhập diệu cõi đạo.
Trước tình hình ngả nghiêng của đất nước thời 1945, Ngài ra tham gia chính trị hoạt động cứu nước. Ngày 16 tháng 4 năm 1947 (ngày 25 tháng 2 Nhuần năm Đinh Hợi) Ngài bị Việt Minh âm mưu bắt và ám hại.
Kể từ dạo đó, 1947, đến nay, Đức HGC thường xuyên xuống điển qua nhiều xác phàm khác nhau như ông Đạo Nhỏ, Bần Sĩ Vô Danh v.v., để dạy dỗ dân chúng tu hành chuẩn bị cho thời Thượng Ngươn Thánh Đức sắp đến, 2017.
Thơ dẫn chứng Cụ Trạng Trình là Đức Huỳnh Giáo Chủ:
Dec/03/2008: Đức HGC cho thơ:
Huỳnh Phú Sổ nay ghé thăm Lộc
Phú qúi tài cao hãy bước vào
Sổ trời qui định nay kiếp chót
Là đà hành pháp rớt như chơi
Đức cao trí sáng mượn pháp vào
Trạng xưa người đã nói rất rõ
Trình lên Ngọc Đế vĩ xà đầu
Xưa người sử chép long hoa hội
KB: Điển Đức HGC
3. Kết Luận:
Thưa các bạn, thế giới năm châu có nhiều giống dân với màu da khác biệt như trắng, vàng, đen, đỏ v.v, vì thế mỗi sắc dân đều có thầy tổ riêng của họ. Ví dụ như dân Trung Đông bên Ai Cập gần vùng 3 kim tự tháp lớn thì có thầy tổ của họ thuộc chòm sao Osiris. Mỹ thì theo còm sao Pleaides, Thất Nữ Tinh. Hoặc có nhóm thì theo chòm sao Sirius v.v. Còn đám da vàng Đông Á thờ con rồng làm linh vật, cùng chia sẻ nền văn minh dựa trên Bát Quái thì có gốc thầy tổ ở Đao Lợi (Arcturus) thuộc chòm sao Thanh Long.Việt Nam chúng ta thuộc nhóm này. Các Thầy Tổ của BYHD Thiền Tam Pháp kể trên đều từ cõi Đao Lợi Thanh Long này. Chi tiết hơn, Đức Vĩ Kiên và nhiều vị ngự tại sao Vĩ Cơ hay Lalande 25372, xin xem bài “Quê Hương Đao Lợi”.
Chúng tôi hy vọng những chi tiết này đem lại cho bạn đọc những thú vị, làm sáng tỏ thêm những vấn đề về tâm linh như cõi Đao Lợi, biết thêm về gốc gác quê nhà của Thầy Tổ, và cuối cùng là làm tăng trưởng lòng tin vào BYHD thiền tam pháp để việc tu hành được thêm tinh tấn và kết quả khả quan.
Chúc các bạn tinh tấn và may mắn trên đường tu hành.
Kính Bút,
Viễn Lưu (Feb/13/2014, Rằm Thượng Ngươn Giáp Ngọ)